TỔNG QUAN VỀ PIN NHIÊN LIỆU (2)
NGƯT
NGUYỄN NGỌC DIỆP
Trong
trường hợp pin Hydro/Oxy (H1), các chất tham gia phản ứng hoá học tổng quát này là nhiên liệu hydro và chất đốt cháy là
oxy:
Thật vậy, hiệu suất nhiệt của động cơ nhiệt bị giới hạn bởi hiệu suất
chu trình Các-nô :
Ngược lại, hiệu suất của pin nhiên liêu khi làm việc với nhiệt độ và áp
suất không đổi trong điều kiện thuận nghịch ,
có thể viết :
DG = DH – T.DS trong đó T.DS la nhiệt lượng đẳng nhiệt thuận nghịch
trao đổi với bên 
Ví dụ : - Với pin hydro
Hydro
sản xuất bằng phương pháp reformage nhiên liệu với nước được chứa trong các chai
nén khí hay trong chậu Dewar chứa hydro lỏng hay trong hydrua kim loai. Nhiên
liệu có thể là khí ga thiên nhiên (CH4), than, methanol, propane, napta, phần
ngưng tụ của nhiên liệu chưng cất…Sự reformage có thể tiến hành bên ngoài pin
(với pin nhiệt độ thấp như pin PAFC,AFC, hay PEMFC), và tốt hơn là bên trong pin
(pin nhiệt độ cao: pin MCFC hay SOFC) thì có hiệu suất cao hơn và giá thành chế
tạo rẻ hơn. Trong trường hợp vaporeformage CH4 (là thành phần chính cùa khí ga
thiên nhiên) thì phản ứng là :

Và
có thêm phản ứng :
Sự reformage bên ngoài pin làm tăng đô phức tạp và làm
giảm hiệu suất năng lượng của pin (hiệu suất của bọ reformeur khoảng 79% đến
80%. Trong một số pin, người ta thực hiện sự đốt cháy điện hoá trực tiếp nhiên
liệu, như pin DMFC (Direct Methanol Fuel Cell).
Pin SOFC nhiên liệu có áp lực nén được sử
dụng như một buồng cháy cho turbin khí. Có thể có thêm một buồng đốt phụ hỗ trợ
để làm tối ưu hệ thống.
6- James larmie &Jown Lowry – Oxford University (Electric Vehicle Technology Explained)
I- Giới thiệu :
Pin nhiên liệu (Pin à Combustible) hay còn gọi là tế bào
nhiên liệu (Fuel Cell)) ngày càng được chú ý phát triển để sử dụng nhiên liệu
một cách có lợi hơn là dùng động cơ nhiệt để chuyển hoá năng thành cơ năng, rồi
từ cơ năng chuyển thành điện năng. Các ưu điểm nổi bật của pin nhiên liệu là :
Hiệu suất điện cao, năng lượng lớn, ít phát thải ô nhiễm, ít tiếng ồn, có thể
sản xuất tại chỗ hay lưu động. Tuy vậy, giá thành hãy còn cao nếu người ta chưa
đầu tư thích đáng thêm để nghiên cứu hoàn
thiện hơn nữa.
Từ năm 1839, người ta đã khám ra pin nhiên liệu. Sau đó
pin nhiên liệu bị quên lãng. Sau năm 1970, các tập đoàn công nghiệp lớn mới ra
sức nghiên cứu về pin nhiên liệu. Cho đến năm 2004 , đã có một số hãng ô-tô đưa
ra những xe prototype dùng pin nhiên liệu, nhưng thật sự vẫn chưa phải là những
sản phẩm thương mại. Năm 2005, hai loại pin nhiên liệu PEMFC và SOFC sử dụng
chất điện phân rắn đã được ứng dụng có hiệu quả trên ô-tô . Song song, cũng đã
bắt đầu xây dựng các nhà máy điện-nhiệt ứng dụng công nghệ pin nhiên liệu SOFC
hoặc PEMFC, hoặc PAFC, hay pin MCFC.
Nguyên lý làm việc của loại pin hydro/oxy có thể tóm tắt
như sau : phần tử pin thực hiện một sự chuyển đổi trực tiếp năng lượng hoá học
thành năng lượng điện nhờ phản ứng kéo theo sự tạo ra enthapie tự
do DG của phản ứng (Năng
lượng tự do Gibbs):
DG
+ nFEeq = 0 trong đó DG<0 (1)
Eeq = là sức điện động của pin ở trạng thái cân bằng
(tức là lúc dòng I bằng 0)
n - số điện tử trao đổI trong phản ứng điện hóa của phần tử
pin
F - 96500
C=1 Faraday, tức là lượng điện tích tham gia của một mol điện tử.

H2 + ½
O2 à H2O với DGo =-237 kJ/mol
H2 (trạng thài tiêu chuẩn) (2)
Từ (1) suy ra tương đương với sức điện động cân bằng ở
250C, trạng thái tiêu chuẩn
::

(trạng thái tiêu chuẩn )
Sự oxy-hoá điện-hoá của hydro tiến hành tại anod (là một
vật liệu dẫn điên có xúc tác (trên cơ sở là phân bố các hạt platin lên than hoạt
tính chẳng hạn) cấu thành âm cực của pin :
- Với pin dùng chất điện phân acid : H2 à 2
H+ + 2 e- (3)
- Với pin dùng chất
điện phân kiềm : H2 +
2 OH- à 2 H2O + 2 e-
Còn phản ứng khử điện hoá của oxy tiến hành tại catod
(cũng làm bằng vật liệu giống anode) cấu thành dương cực của pin :
- Với pin dùng chất điện phân acid : ½ O2 +
2 H+ +
2 e- à H2O (4)
- Với
pin dùng chất điện phân kiềm : ½ O2 + H2O + 2 e- à 2
OH-
Các phản ứng (3) và (4) tạo ra một
dòng các điện tử ở bên ngoài các điện
cực/chất điện phân (qua dây dẫn và phụ tải) như vậy được gọi là phản ứng điện
hoá.
Các ngăn âm cực và dương cực được tách nhau
bởi một chất dẫn ion là chất điện phân và/hoặc một màng ngăn không cho các chất
phản ứng trộn lẫn với các điện tử đi xuyên qua bên trong phần tử pin. Bên trong
ngăn pin dòng các ion di chuyển trong chất điện phân như sau : đối với pin dùng
chất điện phân acid ion
H+ đi từ anod đến catod; còn đối
với pin dùng chất điện phân kiềm thì ion OH- đi từ catod đến
anod
Một số pin nhiên liệu như pin PEMFC còn có
tấm lưỡng cực đặt gần các điện cực, làm nhiệm vụ : -Phân phối ga cho điện
cực -Thu thập các điện tử -Đào thải nước ở anode
CÁC LOẠI PIN NHIÊN
LIỆU
| |||||
Tên gọi
|
Tên đầy
đủ
|
Chất điện
giãi
|
Mức phát
triển
|
Điện cực
|
T0 làm
việc(0C)
|
SOFC
|
Solid Oxide Fuel
Cell
|
ZrO2 - Y2O3
|
Nguyên mẫu
100kW
|
Pt, Ag, Au hay đất
hiếm
|
700-1000
|
MCFC
|
Molten Carbonate Fuel
Cell
|
LI2CO3/K2CO3
|
Nguyên mẫu
3MW
|
Ni xốp hay Ni-Al;Ni phủ NiO
|
650
|
PAFC
|
Phosphoric Acid Fuel
Cell
|
H3PO4
|
Thương mại hoá hàng loạt. 11 MW ở
Vịnh Nhật Bản
|
LìCO3-K2CO3
|
200
|
PEMFC
|
Proton Exchange Membrane Fuel
Cell
|
Chất dẫn proton
polymere
|
Nguyên mẫu 250kW
Trạm Không
gian
|
Than và Pt
Polymere
ionique
|
90
|
DMFC
|
Direct Metthanol Fuel
Cell
|
Chất dẫn proton
polymere
|
Đang nghiên cứu và phát
triển
|
Pt và hợp kim Pt
|
60-90
|
AFC
|
Akaline Fuel
Cell
|
KOH
|
Nguyên mẫu 10kW
Trạm Không
gian
|
Pt/Pa ; Ni
xốp
|
80
|
II- Hiệu suất năng
lượng
Ưu điểm chủ yếu của pin nhiên liệu để tạo
ra điện năng là hiệu suất biến đổi năng lượng cao hơn nhiều so với động cơ nhiệt
kéo máy phát điện.

Với WG - Công cơ học được chuyển đổi
DH – Entanpi của phản ứng
T1, T2 - Nhiệt độ tuyệt đối max , min của
chu trình
Hiệu suất có ích không vượt qua 40% ở động
cơ turbin khí và thường không quá 35% với động cơ đốt trong dùng
piston.

Với We –
Công ứng với điện năng được cung cấp


Ví dụ : - Với pin hydro

-Với pin methanol :
Tuy vậy, hiệu suất thực tế của pin, khi pin cấp điện cho
phụ tải với mật độ dòng điện J, là thấp hơn giá trị hiệu suất thuận nghịch do
tồn tại những sự quá áp h (riêng với pin
H2/O2 chỉ ở cathode) và do những tổn thất ohm
bởi sự có mặt của điện trở R của chất điện phân giữa hai điện cực và điện trở
tiếp xúc.ngăn cách các điện cực không được kín.
Tổng quát, hiệu suất
tổng của pin là tích của ba loại hiệu suất lý thuyết, hiệu suất
thế và hiệu suất Faradaqy : :epin=eG x eEG.x eF.
Vi dụ : Trong một pin
H2/O2 loại PAFC làm
việc ở 1500C, hiệu suất tổng là 300 A/cm2 và
E=0.80 V, có eF.=98% thì hiệu suất tổng bằng : :epin=0.91x 0.65 x 0.98=
58%., vẫn lớn hơn gần 2 lần hiệu suất nhiệt của động cơ đốt trong.
Trường hợp pin Methanol “đốt cháy” trực
tiếp, epin ở
250C , với sức điện động 0.5V thì ::epin=0.97. 0.41= 40% Nếu phản ứng
cháy là không đầy đủ thì có sự tạo ra acid formique (nexp=4) và
aldéhyt formique (nexp=2) thì hiệu suất năng lượng sẽ giảm tương
úng.
III- Các lĩnh vực ứng dụng
:
Nhiều gia đình pin nhiên liệu đã được phát
triển. Pin H2/O2 (hay
không khí) được phân loại theo chất điện phân được dùng. Ứng dụng vào thực tế
trên các lĩnh vực :Sản xuất điện không tập trung (đến vài trăm
mégawatt)
1- Điện-Nhiệt
(cogénérateur) công nghiệp (đến 250 kW)
2- Điện-Nhiệt gia đình (1 kW đến10 kW)
3- Cung
cấp điện-nhiệt cho vùng hẻo lánh (10 kW đến200 kW)
4- Điện
dự phòng (đến 200 kW)
5- Ô-tô
điện (khoảng 50 kW)
6- Xe
bus (khoảng 200 kW)
7- Tàu,
tàu ngầm (theo modul từ 200 kw đến 500
kW)
8- Các
thiết bị xách tay (1 W đến100 W)
9- Thiết bị không gian
Các phản ứng dùng để xử lý và chuyển đổi
nhiên liệu như sau (hình
bên):



Các phản ứng này được tạo ra ở 7000C với sự có
mặt của chất xúc tác Ni, kết quả được một hỗn hợp giàu hydro gọi tên là
reformat. Ngoài hydro ra nó còn có CH4, H2O,
H2, CO2, CO.
CO là chất độc đối với các chất xúc tác nền platine
thường ứng dụng trong các pin nhiệt độ thấp, do vậy hàm lượng của nó cần phải
được kiểm soát chặt chẻ. Ngược lại, nó là một
trong những chất phản ứng trong các pin nhiệt độ cao. Dioxyd carbon làm tiêu hao
chất điện phân kiềm bởi phản ứng cac-bô-nac hoá, do vậy phải loại bỏ
CO2.
| |
|
![]() |
IV- Xử lý nhiên
liệu (H2): Nhiên liệu
sử dụng trực tiếp của phản ứng điện hoá trong pin là hydro. Chỉ có trường hợp
trong pin nhiệt độ cao như MCFC và SOFC là sử dụng trực tiếp CO và pin DMFC sử
dụng trực tiếp methanol.
Sự chuyển đổi nhiên liệu thứ cấp sang hydro
hay sang CO được thực hiện :
- Hoặc thực hiện toàn bộ bên ngoài hệ thống pin
- Hoặc thực hiện ngay trong pin, trong một cấu hình cho phép tối ưu hoá
các dòng nhiệt.
- Hoặc thực hiện trong bản thân pin
bằng cách sử dụng nhiệt sinh ra trog pin
Trước khi tiến hành chuyển đổi nhiên liệu
thứ cấp sang hydro, phải giảm thấp nhất hàm
lượng lưu huỳnh (désulfuration) đối với khí ga thiên nhiên, vì lưu huỳnh phản
ứng với Ni làm chất xúc tác cho bộ reformeur và các điện cực của pin tạo ra NiS
pha lỏng.
Các nhiên liệu thứ cấp sau có thể được sử
dụng : khí ga thiên nhiên, than, biomasse, dầu diesel, methanol…
Khí hoá than (gazéfication)
: phản ứng 7 dùng để
tạo ra khí ga tổng hợp từ phản ứng của than
với hơi nước. Nhiệt cấp cho phản ứng thu
nhiệt này được cấp bởi sự đốt cháy trực tiếp than với oxy hay không khí. Người ta đã xây dựng những nhà
máy khí hoá than có công suất lớn hơn 100MW.
Préformage. Reformage
(prereforming, Reforming):
Reformage hay vaporeformage là quá
trình chuyển nhiên liệu thành hydro và CO. Trước đó là giai đoạn préformage
(phản ứng 5) với các hydrcarbone có C lớn hơn C của methane (éthane, propane,
butane…). Các phản ứng 3 và 4 với sự có mặt
của hơi nước hay CO2 trên một xúc
tác cơ sở Ni ở 650-850 0C. Nói chung, lượng hơi nước đưa
vào gấp khoảng 2 đến 4 lần lượng vừa đúng
theo lý thuyết để ngăn ngừa sự tạo cốc theo phản ứng 16. Phản ứng thu nhiệt này
cần được hỗ trợ một nguồn nhiệt. Nguồn nhiệt này có thể được cung cấp trực tiếp
bởi phản ứng điện hoá cho những pin reformage bên trong. Chỉ với những pin làm
việc ở nhiệt độ cao như pin MCFC và pin SOFC là tương thích với kiểu làm việc
này.
Có hai
dạng reformage bên trong :
a- reformage
bên trong trực tiếp, nó thực hiện trực tiếp lên anode; phản ứng được xúc tác
bằng Ni dùng làm vật liệu điện cực. Loại này gặp ở pin SOFC.
b- reformage
bên trong gián tiếp, nó được đặt ở một ngăn riêng ngăn cách với các điện cực,
nhưng nằm bên trong pin. Loại này gặp ở pin MCFC.
Sự reformage đồng thời có thể thực
hiện trong một bộ phản ứng hoá học tách với các phần tử pin điện hoá, cấu hình
này là bắt buộc với những pin nhiệt độ làm việc thấp hơn
650 0C với khí ga thiên nhiên. Trong trường hợp này,
phản ứng xãy ra trên một thành phẳng kim loại hay một ống chứa chất xúc tác Ni,
nó được làm nóng hoặc nhờ khí ga nóng ở lối ra của phần tử pin hoặc nhờ đốt cháy trực tiếp nhiên
liệu đi qua một buồng đốt (brulueur) hay đốt
cháy xúc tác..
Oxy-hoá một phần (Oxydation
partielle): Nó là một cách reformage, nhưng ở
đây nhiệt cần thiết cho phản ứng là do đốt cháy trực tiếp nhiên liệu ở đai bao
quanh reformage, không có vách ngăn, để trao đổi nhiệt. (phản ứng 9 hay 10) Phản
ứng này được thực hiện một liên hợp các phản
ứng 3 hay 4 và 11 hay 12. Lượng nhiên liệu thừa cho sự reformage sẽ được đưa vào
đai bao quanh với lượng thứa rất ít oxy hay không khí. Sự đốt cháy trực tiếp
nhiên liệu này bằng con đường xúc tác cung cấp lượng nhiệt và nước cần thiết cho
phản ứng reformage. Kỹ thuật này có ưu điểm là nhỏ gọn hơn và nhanh hơn nhờ vào
khoảng cách trao đổi nhiệt rất nhỏ. Nó được áp dụng vào các pin di động. Tuy vậy
do có sự chưng lưu gaz bởi CO2 sinh ra trong phản ứng cháy và nitơ trong không khí nên làm giảm hiệu
suất so với reformage.
Phản ứng ga hơi nước (Réaction gaz
à l’eau, “Water gas shift reaction”):
Theo phản ứng 13 cho phép chuyển
đổi CO tạo ra do reformage thành hydro do
phản ứng với hơi nước. Nó đi qua hai buồng phản ứng đặt nối tiếp được giữ ở
300-5000C và 180-3000C, trên xúc tác cơ sở Fe/Cr và Cu/Zn.. Hàm lượng CO ra khỏi bộ phản ứng
khoảng 0.5% đến 2%.
Oxy hoá có chọn lọc một phần
(Oxydation selective):
Những điện cực của pin nhiệt độ
thấp (PEMFC và AFC) rất nhạy cảm với những lượng nhỏ CO (> 10 p.p.m theo thể
tích). CO làm hỏng chất xúc tác gắn trên kim loại. Hàm lượng CO ra khỏi buồng
phản ứng ga hơi nước vẫn là còn lớn để có thể sử dụng trực tiếp trong pin. Nó
cần phải bị loại bỏ bởi sự oxy hoá xúc tác có chọn lọc để chuyển CO thành
CO2 với một lượng rất ít oxy (phản
ứng 14), để không oxy hoá hydro có trong hỗn hợp.
Métan hoá (Méthanation)
:
Nếu qua các giai đoạn mà lựợng CO
vẫn còn lớn thì phải chuyển CO thành methane bằng phản ứng xúc tác chọn lọc 15
(ngược với phản ứng vaporeformage).
Chuyển thành Carbonat
(Décarbonatation):
Những pin dùng chất điện phân kiềm
như AFC rất nhạy cảm với CO2 . CO2 sẽ được hấp phụ khi đi qua một cạc-tút chứa
NaOH, KOH hay LiOH để chuyển thành carbonate (phản ứng 17).
Cách ly bằng màng (Séparation
membranaire): Sử dụng màng ngăn
palaldium/Ag cho phép đồng thời đạt được độ sạch của hydro rất cao. Hỗn hợp khí
được đưa vào dưới áp lực 20 bar và nhiệt độ 5700K vào một bên của
màng ngăn. Màng Pd/Ag được đặt vào trên một
giá vật liệu gốm. Nhược điểm của kỹ thuật này là đắt tiền và cấn có áp
lực.
Quản lý Chất đốt cháy
(comburant): (H3)
Chất đốt cháy là oxy nguyên chất hay oxy
trong không khí. Thường đưa vào không khí có lượng dư để không khí đồng thời
đóng vai trò làm mát và điều chỉnh nhiệt cho pin (hình 3.). Không khí nghèo oxy
nhưng nhưng đã được làm nóng trong pin có thể
dùng cho buồng đốt nhiên liệu của bộ refomage. Nhờ vậy mà giảm được tiêu hao
nhiên liệu và tăng thêm hiệu suất của hệ thống. Giai đọan nén khí cũng rất cần
cho pin làm việc dưới áp lực. Một máy nén khí của bộ turbo-máy nén vận hành bằng khí nóng thừa ra khỏi buồng đốt cấp
cho turbo hoặc dùng máy nén kéo bằng động cơ điện. Nếu dùng phương án sau thì có
giảm đôi chút hiệu suất của hệ thống. Mạch chất đốt cháy cũng được dùng để tháo
nước sinh ra do các phản ứng điện hoá trong những pin acid.
Quản lý
Nhiệt (H3): Trong pin có hai nguồn nhiệt : - Bên trong các
phần tử pin,sinh ra do tổn thất điện hóa và do hiệu ứng Joule - Nhiệt của buồng đốt của bộ
reformeur
Những hộ tiêu thụ nhiệt của hệ thống làm
nóng trước khí vào pin, sự sản xuất hơi cho bộ reformeur và phản ứng khí than
nước là phản ứng thu nhiệt và có thêm nhiệt cho yêu cầu nhiệt cho các hộ tiêu
thụ nếu cần.. Ở loại pin SOFC thì nhiệt độ làm việc là thừa cho bộ reformeur
trực tiếp khí ga thiên nhiên cho các điện
cực. Khí ga vào pin được làm nóng trước nhờ khí ga qua bộ trao đổ nhiệt.. Không
khí vào pin đóng còn vai trò điều chỉnh nhiệt bên trong pin. Trường hợp pin
nhiệt độ thấp như PEMFC và PAFC thì có một mạch nước vào pin để làm lạnh những
tấm lưỡng cực.
Bộ chuyển đổi
(Convertisseur):
Dùng để chuyển các điện tử ngoại
vi pin thành dạng điện thích hợp với hộ tiêu thụ hay lưới điện. Điện một chiều
từ pin có điện áp từ 0.9V đến 1 V/mỗi ngăn, và khi tải định mức thường là 0.6V
đến 0.7 V/mỗi ngăn. Bộ chuyển đổi có hai nhiệm vụ : -Thêm điện áp để giữ điện áp
đầu ra là không đổi. Chức năng này được đảm bảo bởi một bộ chuyển đổi một chiều-
một chiều (gọi là CC). -chức năng thứ hai là
giữ tần số 50 Hz cho dòng xoay chiều, bộ tạo sóng làm việc này.
Các ứng dụng tĩnh tại :
(1) – Nhà máy hay trạm Điện-Nhiệt (cogénérateur), vừa
phát điện vừa cung cấp nhiệt. Các trạm Điện-Nhiệt này có ưu
điểm là ít gây ô nhiễm, ít tiếng ồn. Nhiệt cung cấp theo các loại pin như sau
:
PIN NHIÊN LIỆU DÙNG CHO NHÀ MÁY
ĐIỆN – NHIỆT
| ||
Loại Pin
|
Nhiệt độ làm việc
(0C)
|
Nhiệt độ cung cấp cho phụ
tải
|
PEMFC
|
80
|
40 đến
80
|
PAFC
|
200
|
40 đến
120
|
MCFC
|
650
|
40 đến
200
|
SOFC
|
850
|
40 đến
700
|
(2) Tổ hợp pin nhiên liệu
và máy nhiệt khác:
Nhiệt thừa từ pin và từ sự đốt cháy nhiên
liệu có thể cung cấp cho turbin khí hay turbin hơi. Nhiều cấu hình đã được thực
hiện :
- Pin-Turbin khí.
- Pin-Turbin hơi
- Pin--Turbin khí—Turbin hơi (xem các hình bên)
| |
|
![]() |
Nhiệt từ pin được sử dụng trong lò hơi cho
turbin hơi.
Với loại thứ ba thì nhiệt từ khí ra khỏi
turbin khí được dùng cho turbin hơi.
Ứng dụng trên ô-tô
:
Rất nhiều chương trình nghiên cứu nhằm vào phát triển pin
nhiên liệu lên loại phương tiện này. Công nghệ hiện nay đã cho phép đặt pin
nhiên liệu lên ô-tô và xe bus. Ô-tô điện chay bằng pin nhiên liệu có khả năng
vận hành với bán kính chạy xe tương đương với ô-tô dùng động cơ nhiệt. Hiện nay
các loại pin PEM và PAFC được dùng nhiều do pin PEM có thể phát ra công suất đủ
lớn trong điều kiện nhiệt độ khí trời mặc dầu chế độ nhiệt chuẩn của nó là
700C. Loại pin này đảm bảo sự
chuyển đổi các chế độ làm
việc
của ô-tô khi có tải cũng như khi dừng xe. Loại pin PAFC thì đòi hỏi nhiệt độ làm
việc luôn giữ ở 2000C. Các hãng ô-tô lớn như De NORA (Ý), Ballard
Power System (Canada) đã phát triển các loại pin nhiên liệu rất nhỏ gọn. Hãng
Mercedes, Daimler và Benz đã đặt lên ô-tô những pin nhiên liệu chuyển đổI
methanol sang hydro có công suất 50kW. hệ thống này có công suất khối và công
suất thể tích chỉ bằng 1kW/1kg và 1kw/lìt. Canada đã phát triển pin nhiên liệu
cho ô-tô công suất 120 kW. Khó khăn hiện nay là vấn đề bình chứa nhiên liệu trên
xe. Nhiên liệu dùng có hai nhóm : - Nhiên liệu từ bình chứa đưa vào dùng trực
tíếp cho pin nhiên liệu (Hydro, Methanol) -
Nhiên liệu thứ cấp dược hệ thống biền đồi nhiên liệu trong xe chuyển thành
hydro, sau đó hydro được đưa đến các diện cực của pin. Với một xe tải trọng 2
tấn, dùng khoảng 1,5 kg hydro cho một khoảng đường chạy là 100 km. Chứa từ 5 đến
10 kg hydro kèm trên xe không phải là vấn đề khó. Nén đến áp lực 250 bar thì
trọng lượng bình cho một kg hydro là 15 kg, năng lượng tiêu thụ để nén khí chiếm
7%. Nén đến áp lực 700 bar thì trọng lượng bình cho một kg hydro là 16 kg, năng
lượng tiêu thụ để nén khí chiếm 16%. Hóa lỏng
hydro ở 20 0K thì
trọng lượng bình cho một kg hydro là 15kg, năng lượng tiêu thụ để nén khí chiếm
15%. Tích trữ hydro bằng hydrure kim loại thì trọng lượng bình cho một kg hydro
là 50-60 kg. Phương pháp dùng hydrure kim loại gặp khó khăn khi đưa vào tích trữ
và khi giãi phóng hydro từ tích trữ. Tích trữ
hydro trong vật liệu sợi nano có thể chứa đến 67% trọng lượng chất mang. Dùng methanol, một chất lỏng, nhiệt trị 19900
kJ/kg và enthapie tự do là 22000 kJ/kg không gặp khó khăn về bình chứa. Nhưng
methanol rất độc (3 ppm thường xuyên hay 1000 ppm trong một giờ có thể làm hại
đền não bộ. Dùng ethanol có nhược điểm là :-
Sự oxy hoá nó thành CO2 và H2O trong pin DMFC
xuất hiện sự quá thế rất lớn. - Hiệu suất
pin thấp khi mật độ dòng là 200-300mA/cm2 và điện áp là
0.5V. Ngoài ra methanol có cấu trúc lập thể và đai điện tử giống với phân tử
nước nên nó rất dễ thấm qua màng proton làm sonvat hoá các proton, di chuyển từ
anode sang cathode dẫn đến sự khử cực các điện cực và nghiêm trọng hơn là làm ô
nhiễm không khí ra khỏi pin.

Phương án dùng nhiên liệu gíán tiếp
như amoniac, methanol hay dầu diesel. Ưu điểm của phương án này là dễ đặt bình
chứa nhiên liệu trên xe Khó khăn ở đây là phải đặt bình chứa gần với bộ phản ứng
chuyển đổi nhiên liệu này thành hydro và bắt buộc phải làm sạch khí ga, cần năng
lượng cần thiết cho bộ phản ứng. Nhiên liệu amoniac nhờ sự crắc-king có xúc tác
sẽ chuyển thành H2/N2 đượcsử dụng trực tiếp
trong pin PEM. Nhiên liệu carbua-hytdro nhờ bộ vaporeformage hay bộ oxy hoá - bộ
phận sẽ sản xuất ra H2, CO,
CO2 .
Hiện nay một hệ thống gồm bình chứa hydro 5 kg với áp
suất 250 bar và những thiết bị ngoại vi có trọng lượng chung là 385 kg cho công
suất 120 kW. Giá trị công suất này lớn hơn nhiều so với dùng ắc-cu. Khó khăn chủ
yếu vẫn là vấn đề bình chứa hydro và mạng lưới phân phối hydro.
Ứng dụng trên thiết bị xách
tay:
Hãng H. Power đã đưa thị trường loại pin nhiên liệu PEMC
cho thiết bị xách tay công suất khoảng 50W, nặng khoảng 300 gam, kích thước 5 cm
x 6 cm x 6 cm. Khó khăn hiện nay vẫn là vấn đề bình chứa hydro. Phương án đang
dùng là chứa hydro trong cạc-tút hydrure kim
loại hay bình chứa có áp suất cao.
IV- Kết luận :
Công nghệ pin nhiên liệu đang phát triển do tính vượt
trội của nó về tiết kiệm nhiên liệu và giảm ô nhiễm môi trường. Song phải vượt
qua những thách thức lớn về công nghệ và giá thành sản xuất. Hiện nay hai loại
pin được chú ý nhiều là pin PEMFC và SOFC. Chúng đã được thương mại hoá, tuổi
thọ có thể đến 40000 giờ. Pin PAFC sắp sửa có
thể được thương mại hoá và thích hợp cho những ứng dụng điện-nhiệt dùng khí ga
thiên nhiên. Pin PEMFC đang trên đường phát triển, nó thích hợp cho ứng dụng
trên ô-tô và trạm điện-nhiệt nhỏ, trên các trạm vũ trụ Phổ ứng dụng của loại pin này rất rộng. Pin SOFC
cho hiệu suất điện cao, có thể đến 70% trong một hệ thống liên hợp pin-turbin
khí. Nó có thể được thương mại hoá trước năm
2005 với những ứng dụng tĩnh tại, nhưng người ta hy vọng đến năm 2010 thì giá
thành mới giảm đáng kể. Pin AFC có nhược điểm
là do sự có mặt CO2 trong chất
điện phân làm carbonate hoá chất điện
phân.
Ghi chú :
- eau Nước -combustible Nhiên liệu
-air Không khí -circuit de
refroidissement/cogénérateu r mạch làm mát/cung cấp nhiệt, hơi
nước
-Bruleur auxuliaire Buồng đốt ngoài - Échangeur de
chaleur Bộ trao đổi
nhiệt
- Générateur de vapeur Bộ tạo hơi nước -Retour de circuit de
chaufage Mạch sấy nóng hồi
lưu
- Pompe de circulation Bơm nước -Circuit auxiliaire
de refroidissement Mạch làm lạnh
ngoài
-Condenseur Bộ ngưng tụ -Complément
en eau Nước bổ
sung
-Bache á eau Két nước -Trop-plein Nước tràn
-Mélangeur Bộ hỗn hợp -Préformeur Bộ pre-for-mage
-Coeur de pile Bên trong pin -Désulfuration Bộ khử lưu huỳnh
-Électro vanne Van điện -Ventilateur Quạt gió
-Transformateur Biến thế điện -Alimentation
des auxiliaire Cung cấp cho phụ
tải
-Reseau électrique Mạng điện -Convertisseur Bộ biến đổi điện một chiều thành xoay
chiều
-Sortie fumées Khói thải -Circuit de chaffage Mach sưởi
ấm -Gas naturel Khí ga thiên nhiên
Tham khảo các tài liệu của
:
1- Philip
STEVENS- -Chef de
projet Piles à combustible á
EDF
2- Fréderic NOVEL-CATIN -Ingé nieur de la Recherche
-Renault
3- Abdel HAMMOU- -Professeur LEPM INP
Grenoble
4- Claude LAMY
– -Professeur de
laboratoire ElectroCatalyse UMR
CNRS
5- Michel
CASSIER – Maitre
conférences – Responsable de l’équipe Pile á combustible . École National Supérieur
ENSCP
6- James larmie &Jown Lowry – Oxford University (Electric Vehicle Technology Explained)
Nhận xét
Đăng nhận xét